ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CỦA HỌC SINH MÔN SINH HỌC 10

2019.03.11 - Hiện nay, nền giáo dục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề, điều này cho phép học sinh áp dụng kiến ​​thức và sự hiểu biết hiện tại để tạo ra những cách thức mới cho các tình huống chưa có sẵn trình tự giải quyết trước đó. Phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề hiệu quả là một trong những mục tiêu lâu dài và được khuyến khích trong giảng dạy Sinh học. Bài viết này khẳng định năng lực giải quyết vấn đề hoàn toàn có thể đo lường được một cách khách quan bằng cách dựa trên khung tiêu chí thang phát triển năng lực cụ thể để xây dựng một bài kiểm tra với các câu hỏi liên quan đến tình huống thực tế. Nhìn chung, thành công của việc giải quyết vấn đề đòi hỏi phải có độ nhạy bén với bối cảnh, áp dụng kiến thức và mô hình phù hợp. Với vai trò trung tâm trong sự thành công, năng lực giải quyết xứng đáng được chú trọng hơn nữa trong chương trình Sinh học trung học phổ thông.

1. Đặt vấn đề. Ngày nay, xã hội phát triển kéo theo sự tiến bộ của nhiều lĩnh vực khác nhau, giáo dục cũng không ngoài guồng quay đó. Vì vậy, câu hỏi: “Đào tạo như thế nào?” luôn là vấn đề cấp thiết đối với các thành phần xã hội quan tâm đến giáo dục nói chung và các nhà quản lí giáo dục nói riêng. Tầm quan trọng đó đã được khẳng định qua Nghị quyết số 29, Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực người học”. Giáo dục ngày nay đã tiến bộ hơn nhiều so với tư tưởng truyền thụ một chiều ngày trước. Theo hướng tiếp cận năng lực (NL), được đề cao hơn so với khả năng biết- hiểu chính là khả năng biết- làm. Toàn bộ những điều này dẫn đến sự phát sinh đa dạng và phức tạp của nhiều vấn đề trong học tập. Giải quyết vấn đề (GQVĐ) có thể theo nhiều hướng khác nhau, nhưng GQVĐ tốt sẽ giúp cá nhân được đánh giá cao trong mắt mọi người. Sinh học là một môn khoa học nghiên cứu về sự sống. Nội dung môn Sinh học hiện nay được xây dựng một cách phù hợp giữa lý thuyết và thực hành, đòi hỏi học sinh (HS) phải có những kĩ năng cần thiết để giải quyết những rào cản phát sinh trong học tập, cuộc sống. Tìm hiểu các nghiên cứu đi trước, hiện chưa có công trình nào giúp đánh giá đúng NL GQVĐ của người học. Do vậy, chúng tôi quyết định xây dựng đề kiểm tra đánh giá NL GQVĐ của HS trong dạy học môn Sinh học lớp 10 để đưa ra một số kết luận khách quan nhất.

2. Năng lực giải quyết vấn đề.Từ khi xuất hiện đến nay, có rất nhiều ý kiến khác nhau về bản chất của “năng lực”. Nhưng đại đa số ý kiến đều cho rằng: NL là một hiện tượng có nguồn gốc phức tạp, do các tố chất và hoạt động của con người tương tác với nhau mà tạo thành. Ngân hàng Thế giới gọi thế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng- Skills Based Economy. Do vậy, tầm quan trọng của đánh giá NL là vô cùng lớn. Theo quan điểm giáo dục hướng vào người học, đánh giá kết quả giáo dục phải hướng tới sau khi học, HS có thể vận dụng kiến thức, kĩ năng học được ở nhà trường vào cuộc sống chứ không chỉ đánh giá theo từng đơn vị kiến thức, kĩ năng riêng rẽ. Do đó, cần tới đánh giá NL [4]. Đánh giá năng lực là đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ trong một bối cảnh có ý nghĩa (Leepil, 2011). NL người học phụ thuộc vào độ khó của nhiệm vụ hoặc bài tập đã hoàn thành. Thực hiện được nhiệm vụ càng khó và phức tạp, càng được đánh giá có NL cao.

NL được bao gồm NL chung và NL chuyên biệt. NL GQVĐ nằm trong nhóm NL chung làm chủ và phát triển bản thân mà HS phổ thông cần đạt được [2]. NL GQVĐ là khả năng cá nhân sử dụng hiệu quả các quá trình nhận thức, hành động và thái độ để giải quyết những tình huống không có sẵn cách thức và trình tự giải quyết [3]. NL này có cấu trúc gồm 4 thành tố: tìm hiểu vấn đề, thiết lập không gian vấn đề, lập kế hoạch thực hiện giải pháp và đánh giá phản ánh giải pháp. Để đo lường được NL này, một số cá nhân và tổ chức đã đưa ra các thang đánh giá cụ thể như thang phân loại của ATC21S, thang phát triển của Patrick Griffin … Dựa trên việc tham chiếu thang phát triển NL GQVĐ gồm 3 mức độ (nhận dạng, sử dụng kiến thức, mô hình, quy tắc à khái quát hóa giải pháp à giả thuyết) của Patrick Griffin, có thể xây dựng bảng mô tả 5 mức độ phát triển NL này của HS phổ thông. Trong đó, HS tiểu học có thể đạt được mức 3, trung học cơ sở có thể đạt được mức 4 và trung học phổ thông (THPT) có thể đạt tới mức 5.

3. Bài trắc nghiệm đánh giá năng lực giải quyết vấn đề môn sinh học 10. Chúng tôi đã tiến hành xây dựng các bài trắc nghiệm đánh giá năng lực giải quyết vấn đề môn sinh học 10 và thử nghiệm. Kết quả phân tích dựa trên lý thuyết khảo thí đã giúp nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn bảng mô tả theo thang đánh giá NL của Patrick Griffin để xây dựng bảng tiêu chí dạng RUBRIC với nguyên tắc đạt/ không đạt NL GQVĐ ở mức độ nào. Từ đó thiết kế mẫu một bài kiểm tra với các nhiệm vụ (tình huống có vấn đề) theo cấu trúc PISA với độ khó tăng dần qua từng câu hỏi.

Mức

 

Câu hỏi

Trắc nghiệm khách quan

Trắc nghiệm tự luận

Virut

Phân bào

Virut

Phân bào

1

2

0

1

1

2

2

2

0

0

3

2

2

1

1

4

2

0

3

1

5

0

0

0

0

Tổng

8

4

5

3

20

 

Bảng 1. Ma trận bài trắc nghiệm năng lực giải quyết vấn đề môn sinh 10

Ma trận thuộc hai đơn vị kiến thức lớn đó là “Phân bào”, “Virut và bệnh truyền nhiễm”, xây dựng gồm 11 ý trắc nghiệm tự luận (bao gồm cả tự luận dài- ngắn) và 9 ý trắc nghiệm đa lựa chọn (trắc nghiệm chọn nhiều đáp án đúng). Tổng câu hỏi là 20 ý, 10 điểm/ý. Bài kiểm tra gồm hai nhiệm vụ gắn với thực tế có kiến thức liên quan đến chương “Phân bào” (tình huống “Nòng nọc nhỏ”), chương “Virut và bệnh truyền nhiễm” (tình huống “Sốt rét”). Đề kiểm tra không xuất hiện câu đo mức NL số 5 do mức này đòi hỏi HS phải đánh giá giá trị giải pháp đưa ra ... Với HS lớp 10, mới bước vào THPT thì đa số còn chưa đáp ứng được.

4. Kết quả thực nghiệm. Thực nghiệm triển khai trên 68 HS lớp 10 của trường THPT Chuyên Bắc Giang và một số trường THPT trên địa bàn Hà Nội. Qua quá trình thử nghiệm và thực nghiệm, chúng tôi đưa ra một số nhận xét sau:

Xuất hiện 4 nhóm HS chủ yếu:

  • Nhóm đạt về kiến thức lí thuyết song giải quyết tình huống thực tế không đạt.
  • Nhóm không đạt về kiến thức song giải quyết tình huống thực tế đạt.
  • Nhóm đạt về cả hai mặt kiến thức và giải quyết tình huống thực tế.
  • Nhóm không đạt về cả hai mặt kiến thức và giải quyết tình huống thực tế.

Khi phân tích chung cả hai nhóm HS Chuyên và không Chuyên, mức điểm trung bình vào khoảng 4 điểm. Mức điểm xuất hiện nhiều nhất là 3, thấp nhất là 1 và cao nhất là 9. Mức điểm của bài KT tập trung khá gần với điểm Median = 4,00, đường phân bố lệch chuẩn, nghĩa là điểm của bài KT này khá thấp. Đối với bài kiểm tra đánh giá NL GQVĐ với các vấn đề thực tiễn, hầu hết HS thể hiện mức NL trung bình- khá hoặc trung bình- kém.

Ngược lại, khi phân tích riêng nhóm HS Chuyên, mức điểm trung bình vào khoảng 6 điểm. Mức điểm xuất hiện nhiều nhất là 6, thấp nhất là 3 và cao nhất là 9. Mức điểm của bài KT tập trung gần với điểm Median = 6.00 vì vậy có thể nói điểm của bài KT phân bố chuẩn. Đối với bài kiểm tra đánh giá NL GQVĐ, hầu hết HS nhóm chuyên thể hiện ở mức độ trung bình- khá.

3. Bài trắc nghiệm đánh giá năng lực giải quyết vấn đề môn sinh học 10. Chúng tôi đã tiến hành xây dựng các bài trắc nghiệm đánh giá năng lực giải quyết vấn đề môn sinh học 10 và thử nghiệm. Kết quả phân tích dựa trên lý thuyết khảo thí đã giúp nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn bảng mô tả theo thang đánh giá NL của Patrick Griffin để xây dựng bảng tiêu chí dạng RUBRIC với nguyên tắc đạt/ không đạt NL GQVĐ ở mức độ nào. Từ đó thiết kế mẫu một bài kiểm tra với các nhiệm vụ (tình huống có vấn đề) theo cấu trúc PISA với độ khó tăng dần qua từng câu hỏi.

Mức

 

Câu hỏi

Trắc nghiệm khách quan

Trắc nghiệm tự luận

Virut

Phân bào

Virut

Phân bào

1

2

0

1

1

2

2

2

0

0

3

2

2

1

1

4

2

0

3

1

5

0

0

0

0

Tổng

8

4

5

3

20

 

Bảng 1. Ma trận bài trắc nghiệm năng lực giải quyết vấn đề môn sinh 10

Ma trận thuộc hai đơn vị kiến thức lớn đó là “Phân bào”, “Virut và bệnh truyền nhiễm”, xây dựng gồm 11 ý trắc nghiệm tự luận (bao gồm cả tự luận dài- ngắn) và 9 ý trắc nghiệm đa lựa chọn (trắc nghiệm chọn nhiều đáp án đúng). Tổng câu hỏi là 20 ý, 10 điểm/ý. Bài kiểm tra gồm hai nhiệm vụ gắn với thực tế có kiến thức liên quan đến chương “Phân bào” (tình huống “Nòng nọc nhỏ”), chương “Virut và bệnh truyền nhiễm” (tình huống “Sốt rét”). Đề kiểm tra không xuất hiện câu đo mức NL số 5 do mức này đòi hỏi HS phải đánh giá giá trị giải pháp đưa ra ... Với HS lớp 10, mới bước vào THPT thì đa số còn chưa đáp ứng được.

4. Kết quả thực nghiệm. Thực nghiệm triển khai trên 68 HS lớp 10 của trường THPT Chuyên Bắc Giang và một số trường THPT trên địa bàn Hà Nội. Qua quá trình thử nghiệm và thực nghiệm, chúng tôi đưa ra một số nhận xét sau:

Xuất hiện 4 nhóm HS chủ yếu:

  • Nhóm đạt về kiến thức lí thuyết song giải quyết tình huống thực tế không đạt.
  • Nhóm không đạt về kiến thức song giải quyết tình huống thực tế đạt.
  • Nhóm đạt về cả hai mặt kiến thức và giải quyết tình huống thực tế.
  • Nhóm không đạt về cả hai mặt kiến thức và giải quyết tình huống thực tế.

Khi phân tích chung cả hai nhóm HS Chuyên và không Chuyên, mức điểm trung bình vào khoảng 4 điểm. Mức điểm xuất hiện nhiều nhất là 3, thấp nhất là 1 và cao nhất là 9. Mức điểm của bài KT tập trung khá gần với điểm Median = 4,00, đường phân bố lệch chuẩn, nghĩa là điểm của bài KT này khá thấp. Đối với bài kiểm tra đánh giá NL GQVĐ với các vấn đề thực tiễn, hầu hết HS thể hiện mức NL trung bình- khá hoặc trung bình- kém.

Nhìn chung, độ phân biệt của bài kiểm tra ổn định, hầu hết các câu có d > 0,2. Có thể kết luận đề kiểm tra này phân biệt được các nhóm HS. Với những câu khó (đo mức độ cao) kết hợp với bảng số liệu thô, có thể kết luận: HS nhóm giỏi cũng khó trả lời được ở mức độ hoàn hảo.

Đối với câu 8a, độ phân biệt vẫn chấp nhận được với những HS trả lời câu hỏi ở mức bình thường và khá, nhưng rất ít HS trả lời đúng câu này ở mức hoàn hảo, kể cả đối với HS nhóm giỏi. Đối với một số câu đo lường mức NL số 1 như câu 10, rất nhiều HS nhận biết sai về hình thái của trứng và tinh trùng trong thực tế, mặc dù khía cạnh kiến thức này đã được đề cập rất nhiều trong chương trình Sinh học các cấp, lớp trước. Tương tự, đối với việc nhận biết quá trình phân bào: nguyên phân và giảm phân, không ít HS trả lời sai hoặc nhận thức không đầy đủ về các hiện tượng này ngoài cuộc sống. Để trả lời hoàn hảo các câu hỏi mức độ 4, đòi hỏi HS phải có kiến thức thực tế, suy luận logic cao, liên kết các dữ kiện phù hợp. Ngoài nhược điểm là kiến thức liên hệ thực tế không cao, hầu hết các em chưa biết khai thác hết thông tin trợ giúp trong bài kiểm tra. (đơn cử: mặc dù đã có gợi mở cho câu 9 ở câu 8c: lượng oxy, glucose mang tới các cơ quan trên giảm sút gây suy chức năng các cơ quan; song chỉ có duy nhất một HS trả lời hoàn hảo câu hỏi này).

Ngược lại, khi phân tích riêng nhóm HS Chuyên, mức điểm trung bình vào khoảng 6 điểm. Mức điểm xuất hiện nhiều nhất là 6, thấp nhất là 3 và cao nhất là 9. Mức điểm của bài KT tập trung gần với điểm Median = 6.00 vì vậy có thể nói điểm của bài KT phân bố chuẩn. Đối với bài kiểm tra đánh giá NL GQVĐ, hầu hết HS nhóm chuyên thể hiện ở mức độ trung bình- khá.

Bài kiểm tra có độ tin cậy Cronbach’s Alpha = 0,843, độ tin cậy của bài cao hơn độ tin cậy của từng tình huống. Để câu trả lời đạt được cấp độ cao hơn (Không đạt < Bình thường < Khá < Hoàn hảo) thì độ khó nhiệm vụ HS phải hoàn thành càng tăng. Đặc biệt đối với câu đánh giá mức NL 4, HS phải đối mặt với câu hỏi có độ khó dưới 0,2. Nếu như với một HS nhận diện vấn đề không tốt thì các bước tiếp theo sẽ rất khó khăn. GQVĐ đòi hỏi người xử lí phải có lượng kiến thức và tư duy logic nhất định. Chỉ xét riêng với nhóm HS không chuyên: do quen với việc trả lời câu hỏi khách quan đa lựa chọn một đáp án đúng nên HS không đọc, nghiền ngẫm kĩ đề kiểm tra; một số em HS biểu hiện lười làm câu tự luận.

Nếu chỉ xét ở cấp độ khá- hoàn hảo, số HS tỉ lệ nghịch với mức NL đạt được. Nếu xét ở cấp độ từ bình thường trở lên, HS đạt mức NL 4 chỉ chiếm 44/68, thấp hơn hẳn so với mức 1, 2, 3.  Đạt được cấp độ hoàn hảo ở mức NL số 4 chỉ có duy nhất một HS.

Đa số các em đều nhận thấy đây là một đề kiểm tra gắn với thực tiễn cuộc sống. Không đơn thuần chỉ là nhớ kiến thức, đề kiểm tra khó hơn thông thường vì phải động não, liên tưởng, suy nghĩ logic; tuy nhiên hầu hết các em vẫn muốn được tiếp tục làm những bài kiểm tra tương tự.

5. Kết luận. NL GQVĐ hoàn toàn có thể đo lường được một cách khách quan bằng cách xây dựng một bài kiểm tra với các tình huống thực tế dựa trên khung tiêu chí thang phát triển NL. Bằng quy trình xây dựng bài kiểm tra đánh giá NL GQVĐ mà tác giả đưa ra có thể bước đầu đánh giá được NL này của HS THPT trong một số đơn vị kiến thức học kì II Sinh học 10. Nhìn chung, với hoạt động dạy học hiện nay và hình thức kiểm tra theo kiểu thông thường (3 bậc kiến thức) cũng đã đáp ứng một phần nào nhiệm vụ phát triển NL này. Tuy nhiên, NL thể hiện với các tình huống thực tế trong môn Sinh học chưa thực sự cao. Điều này đòi hỏi cần phải có nhiều hơn những sự đầu tư, phát triển đúng đắn để NL GQVĐ của HS ngày càng được phổ biến và nâng cao trong học tập cũng như cuộc sống.

                                               Nguồn: Mai Văn Hưng, Lê Thái Hưng, Đỗ Hoàng Mai (2015). Đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của học sinh qua môn sinh học 10. Tạp chí Giáo dục, số 365, kì 1 (pp58-60)

6. TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Hội nghị lần thứ 8), Nghị quyết số 29 – NQ/TW.
  2. Bộ Giáo dục và Đào tạo , “Hệ thống năng lực chung cốt lõi của học sinh phổ thông cho chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015”, Báo cáo chuyên đề thuộc hội thảo.
  3. Bộ Giáo dục và Đào tạo), Tài liệu Hội thảo “Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh”, Hà Nội, 12/2014.
  4. Nguyễn Công Khanh(chủ biên)- Đào Thị Oanh- Lê Mỹ Dung, Kiểm tra đánh giá trong giáo dục, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2014.
  5. Patrick Griffin, Assessment for teaching, Cambridge University Press, 2014.
  6. Ross H. Nehm, Understanding Undergraduates’ Problem-Solving Processes.
about-star