THIẾT KẾ BÀI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN TOÁN LỚP 11 THEO DẠNG THỨC CÂU HỎI CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÁNH GIÁ HỌC SINH QUỐC TẾ PISA
Tóm tắt
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm vận dụng những dạng thức câu hỏi trong đề thi PISA và các bậc năng lực toán học mà đề thi PISA sử dụng để thiết kế một đề kiểm tra đánh giá (KTĐG) kết quả học tập (KQHT) môn Toán lớp 11 thuộc Chương trình giáo dục phổ thông (PT) hiện hành. Đề KTĐG sau khi thiết kế đã được đánh giá chất lượng và mức độ khả thi thông qua thực nghiệm trên hai nhóm học sinh (HS) thuộc hai trường THPT ở ngoại thành Hà Nội và phân tích kết quả thực nghiệm, vận dụng các lý thuyết khảo thí cổ điển và hiện đại. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy ý nghĩa thực tiễn của việc ra câu hỏi KTĐG theo dạng thức câu hỏi của đề thi PISA đối với việc nâng cao chất lượng dạy học và KTĐG KQHT môn Toán ở PT hiện nay. Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này trong các trường THPT.
Abstract
This research paper presents the outcomes of a study in the application of PISA item formats and its mathematic literacy framework in designing a test for assessing students’ learning outcomes in mathematics grade 11 in Vietnam. The assessment instrument, once having been designed, has been piloted in two groups of students coming from two upper-secondary schools located in a rural area of Hanoi. Analysis on the pilot results have been conducted, utilizing both traditional and modern testing theories to examine the quality and feasibility of the test. The research results have proved the significance of designing such a test towards the improvement of mathematics teaching, learning and assessment performance in secondary education nowadays. Based on the research results, some suggestions have been proposed to facilitate this assessment activity in individual secondary schools in Vietnam.
Từ khóa: bài kiểm tra, kiểm tra đánh giá, kết quả học tập, dạng thức câu hỏi, PISA, năng lực toán học
Key words: test, testing, assessment, learning outcomes, item format, PISA, mathematic literacy
1. Năm 2012, sự kiện Việt Nam lần đầu tham gia Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) do Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) khởi xướng và phát triển đã thổi một luồng gió mới vào hoạt động KTĐG KQHT trong các bậc học PT ở Việt Nam. Với việc sử dụng dạng thức các câu hỏi gắn liền với các tình huống thường xảy ra trong thực tiễn cuộc sống, bài thi PISA đã có những tác động nhất định đến cách thức thiết kế đề KTĐG KQHT, đặc biệt đối với các môn Toán và khoa học tự nhiên. Thay vì kiểm tra việc tái hiện kiến thức và thực hành các kỹ năng chuyên biệt, gắn liền với kiến thức môn học, nhiều giáo viên đã tìm cách thay đổi, học tập các hình thức câu hỏi mà bài thi PISA sử dụng để xây dựng câu hỏi KTĐG hướng tới khuyến khích học sinh (HS) vận dụng những kiến thức, kỹ năng môn học, kết hợp với tình cảm, thái độ đúng đắn để giải quyết hiệu quả một vấn đề mà các em có thể gặp trong thực tiễn cuộc sống.
Nằm trong xu hướng đó, nghiên cứu này đặt mục tiêu xây dựng một số đề KTĐG KQHT môn toán lớp 11 theo các dạng thức câu hỏi của đề thi PISA. Các câu hỏi được xây dựng theo tiếp cận đánh giá năng lực; được thử nghiệm trên một nhóm học sinh đến từ hai trường THPT thuộc hai huyện ngoại thành Hà Nội. Kết quả thử nghiệm được phân tích, đánh giá, vận dụng lý thuyết khảo thí cổ điển và hiện đại để đánh giá chất lượng câu hỏi và đề thi, từ đó có những điều chỉnh phù hợp nhằm đảm bảo đề KTĐG đạt những yêu cầu cơ bản của một đề thi và câu hỏi KTĐG.
2. Để có cái nhìn toàn diện về các loại hình câu hỏi đánh giá năng lực toán học của đề thi PISA, trước hết hãy tìm hiểu về Khung năng lực toán học (Framework for Mathematical Literacy) của Chương trình PISA.
Đối với Chương trình PISA, OECD định nghĩa “Năng lực toán học là khả năng của mỗi cá nhân trong việc lập công thức (formulate), vận dụng (employ) và diễn giải (interpret) Toán học trong nhiều ngữ cảnh khác nhau. Nó bao gồm khả năng suy luận toán học và sử dụng các khái niệm, quy trình, dữ kiện và công cụ để miêu tả, giải thích và dự đoán các hiện tượng. Nó giúp các cá nhân nhận ra vai trò của Toán học trong cuộc sống và có thể đưa ra những phán đoán và quyết định có cơ sở vững chắc mà mỗi người công dân với tinh thần xây dựng và tham gia đều cần phải có.”[1]
Nhằm xây dựng những câu hỏi phù hợp với mục tiêu là đánh giá mức độ sẵn sàng về năng lực toán học của học sinh lứa tuổi 15 để tham gia các hoạt động thực tiễn trong cuộc sống, Chương trình PISA xây dựng khung năng lực toán học phổ thông, được xác định bởi (i) các quy trình toán học, (ii) các nội dung toán học, và (iii) bối cảnh cho các câu hỏi toán học.
Năng lực toán học của học sinh được cho rằng toát lên từ việc các em thực hiện được các quy trình toán học, bao gồm: (1) lập công thức (formulate), (2) vận dụng (employ) và (3) diễn giải (interpret). Học sinh được yêu cầu thực hiện các quy trình toán học trên thông qua các bài toán được xây dựng theo các nội dung và bối cảnh như sau:
Các nội dung kiến thức trong Toán học, theo PISA bao gồm:
(1) Sự thay đổi và các mối quan hệ (Change and relationships)
(2) Hình phẳng và hình khối (Space and shape)
(3) Số lượng (Quantity)
(4) Sự không chắc chắn và dữ liệu (Uncertainty and data)
Các bối cảnh để xây dựng các câu hỏi toán học trong đề thi PISA bao gồm:
- Cá nhân (Personal)
- Nghề nghiệp (Occupational)
- Xã hội (Societal)
- Khoa học (Scientific)
Bên cạnh đó, Các năng lực toán học cũng được nhóm theo 3 cấp độ bao gồm: Cấp độ 1 (Ghi nhớ, Tái hiện); Cấp độ 2 (Kết nối, Tổng hợp), và Cấp độ 3 (Khái quát hóa, Toán học hóa) (Bảng 1)[2].
Bảng 1. Các cấp độ năng lực Toán học của PISA
Thời gian thí sinh làm một quyển đề thi là 120 phút. Thí sinh phải dùng bút chì để làm trực tiếp vào “Quyển đề thi PISA” (Thí sinh được phép sử dụng các đồ dùng khác như giấy nháp, máy tính bỏ túi, thước kẻ, compa, thước đo độ,… theo sự cho phép của người coi thi).3. Từ kỳ khảo sát năm 2006, mỗi đề thi PISA (booklet) bao gồm nhiều bài (unit). Mỗi bài có cấu trúc gồm hai phần: Phần một nêu nội dung tình huống (stimulus - có thể trình bày dưới dạng văn bản, bảng số liệu, biểu đồ,…), Phần hai là các câu hỏi (items), sử dụng cùng một tình huống đã cho. Trung bình mỗi đề thi có khoảng 50 – 60 câu hỏi. Tổng số bài trong toàn bộ dữ liệu đề thi PISA được chia vào các đề thi khác nhau để đảm bảo các HS ngồi gần nhau không nhận được cùng một đề thi, từ đó không thể trao đổi hoặc gian lận nhìn bài nhau trong quá trình làm bài. Mỗi đề thi sẽ đánh giá một số nhóm năng lực nào đó của một lĩnh vực nào đó và được đóng thành “Quyển đề thi PISA” để phát cho HS.
Kĩ thuật thiết kế đề thi cho phép mỗi đề thi có đủ số thí sinh tham gia làm đề thi đó nhằm mục đích đảm bảo độ giá trị khi thực hiện các thống kê phân tích kết quả.
Đề thi PISA phần Toán học sử dụng đa dạng các loại hình câu hỏi như:
- Câu TNKQ nhiều lựa chọn đơn giản hoặc phức hợp
- Câu hỏi Có/Không, Đúng/Sai đơn giản hoặc phức hợp
- Câu hỏi tự luận có cấu trúc đóng (dựa trên những trả lời cố định)
- Câu hỏi tự luận yêu cầu trả lời ngắn
- Câu hỏi tự luận có cấu trúc mở
Đối với mỗi câu hỏi, thí sinh thường được cho điểm theo 3 mức, tùy thuộc câu trả lời của thí sinh: Trả lời đầy đủ, Trả lời chưa đầy đủ, Không đạt. Tuy nhiên, cũng có nhiều câu hỏi đơn giản mà phần trả lời của thí sinh có thể được cho điểm theo 2 mức là: Trả lời đầy đủ và Không đạt. PISA sử dụng các mức này thay cho các khái niệm “Đúng”, “Đúng một phần”, “Không đúng”. Kết quả làm bài thường được mã hóa bởi các số 0, 1, 2 và 9 để nhập dữ liệu vào các phần mềm chuyên dụng, phục vụ công tác thống kê, phân tích kết quả làm bài của thí sinh.
4. Với khung năng lực và hình thức câu hỏi đánh giá năng lực toán học của đề thi PISA như trên, đề tài đã nghiên cứu xây dựng mục tiêu đánh giá theo năng lực Toán học, cấu trúc đề và đề kiểm tra đánh giá kết quả học tập Chương IV: Giới hạn và Chương V: Đạo hàm thuộc Chương trình Đại số 11.
Mục tiêu đánh giá được xây dựng dựa trên mục tiêu dạy học của hai chương, phát biểu theo 3 cấp độ năng lực toán học của đề thi PISA, như bảng 2 dưới đây.
Bảng 2. Mục tiêu đánh giá năng lực Toán học Chương IV và Chương V Đại số 11
Trên cơ sở mục tiêu đánh giá đã xác định và lựa chọn các loại hình câu hỏi phù hợp để đánh giá từng mục tiêu, ma trận đề kiểm tra được xây dựng. Đề thi bao gồm 10 bài, 25 câu hỏi, trong đó có 19 câu trắc nghiệm khách quan và 6 câu tự luận. Điểm tối đa cho phần trả lời đúng mỗi câu hỏi là 0.4. Thời gian thí sinh làm bài là 50 phút. Phân bố câu hỏi và nội dung cũng như cấp độ năng lực mỗi câu hỏi sẽ đánh giá như Bảng 3.
Bảng 3: Ma trận đề kiểm tra đánh giá KQHT Chương IV và Chương V Đại số 11
5.1. Từ bảng kết quả thống kê mô tả phân bố điểm của HS tham gia thực nghiệm (Bảng 4) và biểu đồ phân bố điểm (Hình 1), ta có điểm trung bình đạt được của nhóm HS tham gia thực nghiệm là 6.44 với độ lệch chuẩn 1.4, điểm thấp nhất là 3 và điểm cao nhất là 9, số điểm mà nhiều thí sinh đạt được nhất là 6. Với kết quả phân tích theo phân phối chuẩn như Hình 1, có thể kết luận đề thi đưa vào thực nghiệm đã khá tốt, đảm bảo đánh giá được các mức độ năng lực khác nhau của học sinh.
5. Lần thực nghiệm này được tổ chức tại hai trường THPT thuộc một huyện ngoại thành Hà Nội, với số học sinh tham gia làm bài kiểm tra ở mỗi trường lần lượt là 80 và 78 học sinh. Ngoài các mục đích đánh giá chất lượng đề thi và chất lượng câu hỏi, việc lựa chọn hai trường THPT trên cùng một địa bàn ngoại thành Hà Nội tham gia thực nghiệm còn nhằm mục đích so sánh xem kết quả làm bài có khác nhau giữa hai trường cùng khu vực. Dưới đây là kết quả thực nghiệm:
5.2. Đánh giá mức độ tương đồng về kết quả thực nghiệm giữa hai trường, ta so sánh điểm trung bình của hai nhóm học sinh đến từ hai trường, có kết quả như sau:
Phép kiểm định T-TEST được sử dụng để kiểm định tính đồng nhất về phân bố điểm giữa hai nhóm học sinh.
Bảng 5. Kết quả kiểm định T - TEST về phân bố điểm của hai trường thực nghiệm
Bảng 2 cho thấy, với Sig. bằng 0.1>0.05 có thể kết luận phân bố điểm giữa hai nhóm học sinh tham gia thực nghiệm có phương sai đồng nhất với nhau, ta có đủ điều kiện để so sánh điểm trung bình của học sinh hai trường.
Với Sig. (2 - tailed) bằng 0.047<0.05, có thể kết luận có ý nghĩa thống kê sự khác nhau về điểm giữa hai trường với mức ý nghĩa thống kê 0.047. Trung bình cho khoảng tin cậy 95% này là từ -0.88643 đến -0.00639. Cụ thể, điểm trung bình của Trường THPT Y là 6.65 và Trường THPT X là 6.24.
Bảng 6. Mô tả thống kê so sánh điểm của hai trường thực nghiệm
|
TRƯỜNG |
N |
Trung bình |
Độ lệch chuẩn |
Sai số của giá trị trung bình |
TỔNG ĐIỂM |
THPT X |
78 |
6.24 |
1.27 |
.14 |
THPT Y |
80 |
6.65 |
1.50 |
.17 |
5.3. Vận dụng lý thuyết khảo thí cổ điển và lý thuyết trả lời câu hỏi để phân tích sâu hơn nhằm đưa ra những nhận xét, đánh giá về chất lượng đề thi và câu hỏi thi, ta có kết quả như sau:
Nhìn vào biểu đồ phân bố kết quả kiểm tra tại Hình 1, có thể thấy đề kiểm tra khá dễ so với trình độ của thí sinh. Thống kê độ khó câu hỏi (theo lý thuyết khảo thí cổ điển, là tỷ lệ thí sinh trả lời đúng) của 19 câu TNKQ, ta có thể nhận ra điều đó (Bảng 7). Với học sinh 2 trường THPT này, tất cả các câu TNKQ đều có từ xấp xỉ 60% đến trên 80% HS trả lời đúng; câu TNKQ dễ nhất là câu 1 (độ khó trên 0.8) và khó nhất là câu 6 (độ khó xấp xỉ 0.6). Theo các chuyên gia khảo thí, đây là khoảng giá trị độ khó khá lý tưởng với câu TNKQ có 4 lựa chọn.
Bảng 7: Độ khó câu TNKQ và tỉ lệ HS lựa chọn các phương án
Câu hỏi |
1a |
1b |
2a |
2b |
3a |
3b |
3c |
5a |
5b |
5c |
Đáp án |
C |
A |
B |
C |
D |
C |
A |
A |
A |
B |
%A |
3.80 |
79.11 |
20.25 |
7.59 |
14.56 |
5.06 |
65.82 |
72.15 |
70.25 |
5.06 |
%B |
9.49 |
4.43 |
63.92 |
14.56 |
6.33 |
14.56 |
15.82 |
16.46 |
6.33 |
74.05 |
%C |
82.28 |
13.29 |
7.59 |
65.19 |
10.13 |
76.58 |
13.92 |
10.13 |
14.56 |
6.33 |
%D |
4.43 |
3.16 |
8.23 |
12.66 |
68.99 |
3.80 |
4.43 |
1.27 |
8.86 |
14.56 |
Câu hỏi |
5d |
5e |
5f |
6 |
7a |
7b |
8a |
8b |
8c |
Đáp án |
C |
A |
A |
C |
C |
A |
A |
D |
C |
%A |
9.49 |
67.72 |
78.48 |
5.06 |
10.76 |
70.25 |
71.52 |
16.46 |
10.13 |
%B |
9.49 |
6.96 |
8.86 |
22.15 |
5.06 |
11.39 |
12.03 |
10.76 |
8.86 |
%C |
66.46 |
8.23 |
8.86 |
59.49 |
78.48 |
6.33 |
11.39 |
10.13 |
73.42 |
%D |
14.56 |
17.09 |
3.80 |
13.29 |
5.70 |
12.03 |
5.06 |
62.66 |
7.59 |
Nhận định về độ khó của đề kiểm tra được khẳng định chắc chắn hơn khi ta vận dụng lý thuyết trả lời câu hỏi (Item Response Theory – IRT) và sử dụng phần mềm CONQUEST để phân tích kết quả kiểm tra. Trên Hình 2 ta thấy khoảng 70% HS có năng lực cao hơn năng lực mà các câu TNKQ được thiết kế để kiểm tra. Câu có bậc năng lực thấp nhất là câu có số thứ tự 1 trong bộ số liệu (câu 1a trong đề thi, giá trị độ khó theo IRT bằng -1.65[1]) và câu kiểm tra được năng lực cao nhất là câu có số thứ tự 14 (câu 6, giá trị độ khó theo IRT bằng -0.41). Kể cả câu 6 cũng chỉ kiểm tra được mức năng lực thấp hơn mức năng lực trung bình của học sinh 2 trường này.
Nhìn vào biểu đồ phân bố năng lực HS và độ khó câu hỏi (Hình 2), chúng ta có thể nhận thấy các câu hỏi không có độ phân biệt lý tưởng. Thật vậy, cả 19 câu hỏi đều có độ phân biệt dương, tuy nhiên, không có câu hỏi nào có độ phân biệt lớn hơn 0.5. Câu 6 mà ta nhắc đến trên đây có độ phân biệt khá thấp, gần đến giá trị 0 (0.11). Các câu hỏi có độ phân biệt gần giá trị 0 đều cần có đánh giá sâu hơn, cả trên phương diện thống kê và phân tích nội dung câu hỏi để cải thiện chất lượng câu hỏi. Nhờ phân tích này, ta phát hiện có 3-4/19 câu TNKQ cần được xem xét lại về chất lượng câu hỏi cũng như các phương án lựa chọn.
Với 6 câu hỏi tự luận, các giá trị độ khó và độ phân biệt đều khá tốt. Phân bố năng lực câu hỏi so với năng lực học sinh khá lý tưởng (Hình 3). Có thể thấy, chỉ những HS có năng lực trung bình trở lên mới có thể giành điểm tối đa các câu hỏi này. Câu có số thứ tự 1 trong bộ số liệu (câu 1c trong đề thi) là câu khó nhất và câu có số thứ tự 2 (câu 4) là câu dễ nhất. Tuy nhiên, để giành được điểm một phần[1] đối với các câu tự luận, thì câu 1c lại là câu HS dễ được điểm một phần nhất, và câu 4 là câu khó được điểm một phần nhất. Các câu hỏi 1c và 10b không có HS nào được điểm tuyệt đối.
Quay trở lại với 19 câu TNKQ, phân tích tỷ lệ lựa chọn các phương án nhiễu còn giúp ta nhận thấy một số câu hỏi có phương án nhiễu chưa thực sự tốt. Điển hình nhất là câu 5a, khi phương án D chỉ thu hút được 1.2% HS lựa chọn. Nhìn vào câu hỏi, ta có thể dễ dàng nhận ra tại HS không lựa chọn phương án D, và phương án này không còn giá trị đánh giá:
Bài 5. (Hạt) Vị trí của một hạt được cho bởi phương trình , .
a. Vận tốc trung bình trong 3 giây đầu tiên là bao nhiêu?
A. 12m/s B. -12m/s C. 12 D. -12
Với cách phân tích tương tự, ta có thể đánh giá chất lượng các phương án nhiễu dựa trên số liệu thống kê kết quả làm bài thi, từ đó có định hướng rà soát và điều chỉnh để nâng cao chất lượng câu hỏi.
6. Từ kết quả nghiên cứu, có thể rút ra một số kết luận và đề xuất như sau:
Có thể sử dụng rộng rãi các cấp độ năng lực Toán học và dạng thức câu hỏi của đề thi PISA để thiết kế bài đánh giá năng lực Toán học của HS THPT nói chung, HS lớp 11 nói riêng. Việc làm này sẽ mang lại hứng thú học tập cho HS bởi những đổi mới trong việc gắn dạy học và KTĐG với thực tiễn cuộc sống (đây là điểm mạnh nổi bật của đề thi PISA).
Để đảm bảo chất lượng câu hỏi cũng như đề thi, việc thiết kế đề cần được thực hiện theo đúng trình tự các bước, từ xác định mục tiêu dạy học, chuyển hóa mục tiêu dạy học thành các mục tiêu KTĐG theo khung năng lực Toán học của đề thi PISA, đến xây dựng ma trận đề, thiết lập tình huống và viết câu hỏi.
Trong khả năng có thể, giáo viên hãy khai thác sử dụng các phép thống kê từ cơ bản đến chuyên biệt để đánh giá chất lượng đề thi và câu hỏi, từ đó có những rà soát, điều chỉnh và rút kinh nghiệm để đề KTĐG ngày càng có chất lượng.
Việc thiết kế đề KTĐG cần được tổ chức theo nhóm/ tổ bộ môn để khai thác thế mạnh của mỗi giáo viên và đảm bảo sự phong phú, đa dạng của tình huống/bài tập và câu hỏi đánh giá.
Mỗi trường nên xây dựng, duy trì và phát triển ngân hàng câu hỏi; giáo viên cần được tập huấn, bồi dưỡng về kiểm tra đánh giá: những kỹ thuật viết câu hỏi đánh giá, kỹ thuật phân tích và sử dụng kết quả KTĐG để mỗi trường có một ngân hàng câu hỏi ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng câu hỏi.
Một số câu hỏi tiêu biểu trong đề thực nghiệm
Không đạt: Câu trả lời khác
Bài 6. An nói Bình: “Nếu Bình đi shopping, Bình có thể có một chiếc váy thật đẹp”. Bình biết điều này có nghĩa là: “Nếu Bình không đi shopping, Bình không thể có một chiếc váy thật đẹp”. Cô giáo nói với Bình: “Nếu f khả vi tại x thì f là liên tục tại x”. Vậy điều này có nghĩa là?
A. Nếu f không liên tục tại x thì f không khả vi tại x
B. Nếu f không khả vi tại x thì f không liên tục tại x
C. Biết f không liên tục tại x thì không cung cấp cho chúng ta đầy đủ thông tin để suy luận bất cứ điều gì về các đạo hàm của f không tồn tại ở x.
Đáp án: C
Bài 10. (Ô nhiễm môi trường): Mức OZON (tính theo phần triệu) ở một ngày hè của vùng X được cho bởi công thức: , t là thời gian tính bằng giây và t = 0 ứng với thời điểm 9h sáng.
b. Tính lượng OZON đo được lớn nhất của vùng X và thời điểm lượng OZON đo được là lớn nhất.
Đáp án:
Mức đầy đủ
- Lượng OZON đo được lớn nhất trong ngày chính là đi tìm GTLN của hàm số .
- Có thể làm theo một trong hai cách sau:
- Cách 1:
=
- Dấu “=” xảy ra khi và chỉ khi
- Vậy lượng OZON đo được lớn nhất trong ngày của vùng X là 116 (DU) khi t = 6s ứng với thời điểm 9h6s sáng.
- Cách 2. Áp dụng đạo hàm
- Ta có , (s)
- Bảng biến thiên
- Vậy lượng OZON đo được lớn nhất trong ngày là 116 (DU) khi t = 6s ứng với thời điểm 9h6s sáng.
- Mức chưa đầy đủ: Câu trả lời chưa đầy đủ
-
Không đạt: Câu trả lời khác
-
Tài liệu tham khảo
1. OECD, (2013), PISA 2012 Assessment and Analytical Framework: Mathematics, Reading, Science, Problem Solving and Financial Literacy, OECD Publishing. http://dx.doi.org/10.1787/9789264190511-en
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2014), Tài liệu tập huấn PISA 2015 và các dạng câu hỏi do OECD phát hành trong lĩnh vực toán học.
[*] Lưu ý: độ khó câu hỏi theo lý thuyết khảo thí cổ điển và độ khó câu hỏi theo IRT là hai khái niệm khác nhau, là kết quả của các phép tính toán khác nhau
[**] Điểm một phần: Do đây là câu hỏi tự luận, điểm số được cho theo kết quả làm bài của HS: HS làm đúng hoàn toàn được điểm tuyệt đối, HS làm đúng một phần được cho điểm một phần. Xem thêm phần ví dụ câu hỏi trong đề kiểm tra.
Nguồn: Lê Thị Hoàng Hà, Cao Văn Giáp, Lê Thái Hưng, (Tháng 10/2016), Thiết kế bài kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn toán lớp 11 theo dạng thức câu hỏi của chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA, Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 133

- Seminar khoa học tháng 5: TỰ CHỦ ĐẠI HỌC VIỆT NAM - GÓC NHÌN PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
- Seminar khoa học tháng 3: THE ROLE OF THE MUNICIPALITY OF REGGIO EMILIA IN PROMOTING ECEC OF HIGH QUALITY
- ENGLISH CULTURAL WORDS ACQUISITION AND STUDENTS’ COMPREHENSION READING COMPETENCY
- ĐÁNH GIÁ RỦI RO TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TỰ CHỦ
- A PRELIMINARY STUDY ON STUDENT - LECTURER INTERACTION IN ONLINE LEARNING MODE TO ENHANCE LEARNING EXPERIENCE
- THE KEY FACTORS FOR ENSURING AUTONOMY AND ACCOUNTABILITY OF HIGHER EDUCATION INSTITUTIONS IN Vietnam
- SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP
Tin cùng loại
